Trong quá trình làm việc, luật sư thường xuyên phải làm việc với cơ quan quản lý nhà nước và việc này thường diễn ra trong 2 trường hợp. Luật sư trao đổi với cơ quan quản lý nhà nước về các vấn đề không rõ ràng trong văn bản pháp luật để tìm ra cách hiểu phù hợp nhất. Ngoài ra, nếu cơ quan nhà nước là một bên tham gia giao dịch, luật sư cũng cần thay mặt khách hàng đàm phán với cơ quan quản lý nhà nước hoặc đại diện cho cơ quan quản lý nhà nước đàm phán với đối tác. Quá trình làm việc với cơ quan quản lý nhà nước đòi hỏi luật sư cần các kỹ năng riêng và đặc thù trong bối cảnh thị trường Việt Nam.
![]() |
Nguồn: Internet – Hình ảnh mang tính minh họa |
Một đặc tính nổi bật của việc tư vấn tại Việt Nam là văn bản pháp luật có thể không hoàn toàn rõ ràng và có sự chồng chéo trong nhiều trường hợp và luật sư cần phải quyết định xem cách hiểu văn bản pháp luật thế nào là phù hợp nhất. Bài này trình bày các kỹ năng mà luật sư cần có khi trao đổi với cơ quan nhà nước để tìm ra cách hiểu phù hợp nhất và phù hợp với ý định khi soạn thảo văn bản pháp luật của nhà làm luật.
Trao đổi không phải để tìm câu trả lời tuyệt đối để tư vấn cho khách hàng. Ý kiến trao đổi với cơ quan nhà nước không thể thay thế phân tích của bản thân luật sư và luật sư cần có chủ ý của riêng mình trước và sau khi trao đổi với cơ quan nhà nước. Ý kiến trao đổi với cơ quan nhà nước chỉ là một yếu tố để luật sư cân nhắc trong việc tư vấn cho khách hàng nhưng đây không phải là yếu tố duy nhất và quyết định để luật sư đưa ra ý kiến tư vấn cho khách hàng.
Các luật sư trẻ thường mắc vào cái bẫy là khi có vấn đề không rõ ràng và chồng chéo trong các văn bản pháp luật thì lập tức hỏi cơ quan nhà nước và khi có được câu trả lời thì tin tưởng đấy là câu trả lời tuyệt đối chính xác có thể dùng để tư vấn ngay cho khách hàng. Có rất nhiều rủi ro cho cách tiếp cận này.
Thứ nhất, luật sư phải hỏi đúng người biết kỹ nhất về ý định của nhà làm luật khi soạn thảo văn bản. Thực tế là khi luật sư hỏi những người khác nhau trong cùng một cơ quan nhà nước thì có các câu trả lời khác nhau. Có thể là một trong các câu trả lời là đúng, có thể tất cả các câu trả lời đều sai nếu không hỏi đúng người.
Thứ hai, chính bản thân người soạn thảo trong cơ quan nhà nước có khi cũng không nghĩ thấu đáo về văn bản pháp luật mình soạn ra và văn bản pháp luật cũng không lường hết các tình huống trên thực tế. Nếu bị hỏi về các tình huống như vậy, chính bản thân người soạn thảo cũng trả lời bừa, thiếu trách nhiệm đối với câu hỏi và nhiều khi câu trả lời không phù hợp với tinh thần của văn bản pháp luật. Nếu luật sư chỉ dựa vào một câu trả lời sai của cán bộ cơ quan nhà nước và dùng câu trả lời sai này để trả lời khách hàng thì sẽ có một ý kiến tư vấn sai cho khách hàng.
Điều rất quan trọng luật sư cần có chủ ý của riêng mình đối với cách giải thích văn bản pháp luật. Luật sư cần phân tích về văn bản luật, đưa ra các cách giải thích khác nhau và rồi tự suy nghĩ xem cách giải thích nào là phù hợp nhất với tinh thần của văn bản pháp luật cũng như thông lệ thị trường. Sau đó luật sư xem xét xem ý kiến trao đổi với cơ quan nhà nước có phù hợp với suy luận logic của mình không. Nếu không thì cần xem xét lại và có thể trao đổi lại với cơ quan nhà nước và trình bày quan điểm của mình.
Một luật sư có trách nhiệm với khách hàng sẽ đưa ra phân tích của mình và chỉ dùng trao đổi với cơ quan nhà nước là một yếu tố để cân nhắc trong việc tư vấn cho khách hàng. Trao đổi với cơ quan nhà nước không bao giờ là yếu tố duy nhất và quyết định để luật sư tư vấn cho khách hàng. Luật sư có thể có quan điểm không giống với quan điểm của cơ quan nhà nước nếu luật sư có lý do xác đáng để tin tưởng rằng quan điểm của cơ quan nhà nước là không phù hợp.
Chuẩn bị trước khi trao đổi với cơ quan nhà nước. Luật sư cần biết rõ về vấn đề cần trao đổi với cơ quan nhà nước và cần có sự chuẩn bị để có thể trao đổi có chiều sâu với cơ quan nhà nước. Các luật sư trẻ thường không có thói quen chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi trao đổi với cơ quan nhà nước và nhiều khi không chuẩn bị gì trước khi trao đổi. Tệ hơn là nhiều khi không hiểu kỹ vấn đề mình cần trao đổi. Các bạn thường có xu hướng suy nghĩ trong đầu theo hai thái cực đối lập là (i) cán bộ cơ quan nhà nước đã nêu ý kiến gì thì chắc chắn là đúng và không cần hỏi nhiều hoặc (ii) cán bộ cơ quan nhà nước thiếu năng lực và do vậy trao đổi đơn giản không cần thảo luận nhiều.
Trên thực tế nhiều khi cả hai giả định trên đều sai. Luật sư cần chuẩn bị để hiểu (i) bối cảnh và mục đích chung của văn bản pháp luật để hiểu logic của văn bản pháp luật, (ii) các văn bản pháp luật có liên quan đến văn bản pháp luật cần thảo luận, (iii) các vấn đề hoặc cách giải thích khác nhau đối với văn bản pháp luật cần thảo luận và (iv) thông lệ thị trường Việt Nam đối với vấn đề pháp lý có liên quan. Tốt hơn nữa thì luật sư cần hiểu các quy định pháp luật tương tự tại các nước phát triển hơn hoặc tương đồng với Việt Nam và thông lệ thị trường tại các nước trên để có thể có quan điểm so sánh.
Trên cơ sở đã có chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy, luật sư có thể trao đổi có chiều sâu với cán bộ cơ quan nhà nước thay vì chỉ thụ động nghe và không nêu được ý kiến của mình khi ý kiến của cán bộ cơ quan nhà nước không phù hợp. Việc trao đổi với cán bộ cơ quan nhà nước một cách có chiều sâu trong nhiều trường hợp sẽ giúp luật sư hiểu kỹ hơn về văn bản và có đánh giá đúng nhất. Đồng thời luật sư cũng thiết lập một quan hệ “ngang bằng” với cán bộ cơ quan nhà nước vì cán bộ cơ quan nhà nước cũng cảm thấy có ích khi trao đổi với luật sư và có xu hướng trao đổi một cách có trách nhiệm và nhiệt tình hơn với luật sư.
Không làm lộ thông tin khách hàng. Khi làm việc với cơ quan nhà nước, luật sư cần chú ý không làm lộ thông tin của khách hàng với cán bộ cơ quan nhà nước và nếu thực sự cần tiết lộ thông tin của khách hàng thì cần xin ý kiến của khách hàng. Trong phần lớn trường hợp trao đổi với cơ quan nhà nước về một vấn đề chưa rõ ràng, khách hàng không muốn tiết lộ tên và nội dung giao dịch, vụ việc của mình với cán bộ cơ quan nhà nước. Nhiều khi khách hàng chỉ mới có ý tưởng về một giao dịch và việc trao đổi và tiết lộ thông tin sẽ làm lộ quá sớm thông tin của khách hàng. Cũng có nhiều trường hợp câu trả lời của cán bộ cơ quan nhà nước là không thuận lợi cho khách hàng và khách hàng không muốn cán bộ cơ quan nhà nước biết về khách hàng và có ấn tượng không thuận lợi đối với giao dịch mà khách hàng đang hoặc sẽ muốn tiến hành.
Ví dụ, một nhà đầu tư nước ngoài tiến hành một giao dịch đầu tư vào một công ty Việt Nam không phải là công ty đại chúng dưới hình thức cổ phần ưu đãi nhưng lại có tính chất như một khoản vay vì có bảo đảm về thanh toán để đạt được một tỷ suất hoàn vốn và công ty phải thanh toán theo thời hạn được các bên thỏa thuận trước. Một giao dịch như vậy có thể không rõ được coi là một giao dịch đầu tư vốn cổ phần đăng ký với Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc một giao dịch đầu tư vốn vay đăng ký với Ngân hàng Nhà nước.
Khi trao đổi với Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước, có thể cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước cho rằng (i) đây là một giao dịch đầu tư vốn cổ phần và phải đăng ký với Sở Kế hoạch và Đầu tư, (ii) đây là một giao dịch đầu tư vốn vay và phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước, (iii) đây vừa là một giao dịch đầu tư vốn cổ phần và là một giao dịch đầu tư vốn vay và phải đăng ký với cả Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước hoặc (iv) mọi thứ không rõ ràng và cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước không có ý kiến gì.
Khách hàng là nhà đầu tư nước ngoài có thể mong muốn hoặc nghĩ rằng giao dịch chỉ cần đăng ký với Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc Ngân hàng Nhà nước hoặc cả hai. Nếu luật sư khi nói chuyện với cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước đã tiết lộ danh tính của khách hàng thì khi làm việc chính thức với Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan nhà nước đã có ấn tượng về cách giải quyết vấn đề với giao dịch cụ thể của khách hàng. Khi đó khách hàng rất khó thay đổi ý kiến hướng dẫn của cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước.
Khi khách hàng không đồng ý với ý kiến hướng dẫn của cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước, khách hàng có thể xem xét thay đổi cơ cấu của giao dịch hoặc có các giải thích cho cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước theo hướng đạt được ý kiến giải thích mà khách hàng mong muốn hoặc thấy phù hợp hoặc có các cách thức tiếp cận khác. Việc quyết định theo cách tiếp cận nào cần sự suy nghĩ thấu đáo của khách hàng trên cơ sở trao đổi ý kiến của các tư vấn. Điều quan trọng là tránh để cơ quan nhà nước có các câu trả lời không mong muốn hoặc không phù hợp cho khách hàng trong một giao dịch, vụ việc cụ thể để tránh ảnh hưởng bất lợi đến việc thực hiện giao dịch, vụ việc đó của khách hàng.
Không có nhiều cơ hội trao đổi hoặc “đàm phán” với các cơ quan nhà nước về các vấn đề pháp lý. Luật sư không được phép sai lầm để các cơ quan nhà nước có một ấn tượng không mong muốn hoặc không phù hợp đối với một giao dịch, vụ việc cụ thể. Trong trường hợp đó, sau đó rất khó hoặc không thể thay đổi cách giải thích hoặc đánh giá của các cơ quan nhà nước.
Nói tóm lại, luât sư cần có chủ ý của riêng mình trước và sau khi trao đổi với cơ quan nhà nước. Ý kiến trao đổi với cơ quan nhà nước chỉ là một yếu tố để luật sư cân nhắc trong việc tư vấn cho khách hàng nhưng không phải là yếu tố duy nhất và quyết định để luật sư tư vấn cho khách hàng. Luật sư cũng cần biết rõ về vấn đề cần trao đổi với cơ quan nhà nước và cần có sự chuẩn bị để có thể trao đổi có chiều sâu với cơ quan nhà nước. Cuối cùng, luật sư cần chú ý không làm lộ thông tin của khách hàng với cán bộ cơ quan nhà nước và nếu thực sự cần tiết lộ thông tin của khách hàng thì cần xin ý kiến trước của khách hàng.
Nguồn: Luật sư Trương Nhật Quang – YKVN
Chia sẻ nếu bạn thấy hữu ích!